Đông Á Các cuộc xâm lược của Mông Cổ

Thành Cát Tư Hãn và các hậu duệ của ông đã thôn tính hoàn toàn Trung Quốc khi tiêu diệt cả ba nước là Kim, Tây HạNam Tống cùng với Vương quốc Đại Lý, buộc Cao Ly trở thành nước chư hầu sau chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly. Người Mông Cổ cũng đã cố xâm lược Nhật Bản, JavaĐại Việt nhưng bất thành. Thành tựu lớn nhất của họ là đã thiết lập nhà Nguyên của người Mông Cổ trên đất Trung Hoa vào năm 1271, dù rằng sau này người Hán do Chu Nguyên Chương lãnh đạo đã lật đổ ách thống trị của Nguyên Mông năm 1368 và lập ra nhà Minh. Mông Cổ cũng đã xâm lược Miến Điện vào các năm 1277, 12831287.

Mông Cổ xâm lược Cao Ly

Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly (1231 - 1273) là cuộc xâm lăng Vương quốc Cao Ly (vương triều cai trị bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392) của Đế quốc Mông Cổ. Cuộc chiến bao gồm 6 chiến dịch lớn của quân Mông Cổ gây thiệt hại nặng nề cho thường dân khắp bán đảo Triều Tiên. Kết quả cuối cùng, Cao Ly đã đầu hàng và trở thành một nước chư hầu của Mông Cổ trong khoảng 80 năm.

Mông Cổ xâm lược Trung Quốc

Chinh phục Tây Hạ

Năm 1209, Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện một chiến dịch lớn để bảo đảm sự phục tùng của Tây Hạ. Sau khi đánh bại một lực lượng do Cao Lương Hứa lãnh đạo, Thành Cát Tư Hãn chiếm được Ô Hải và tiếp tục tiến dọc theo sông Hoàng Hà, chiếm được một số thành trì và bao vây thủ đô của Tây Hạ là Ngân Xuyên. Người Mông Cổ vào thời điểm này còn thiếu kinh nghiệm trong chiến tranh bao vây, họ đã cố gắng làm ngập thành Ngân Xuyên bằng cách chuyển hướng sông Hoàng Hà, nhưng những con đê mà họ dựng lên để thực hiện kế sách này bị vỡ, làm ngập trại đóng quân của chính họ. Tuy vậy, Hoàng đế Tây Hạ là Lý An Toàn, do bị người Mông Cổ đe dọa và không nhận được sự cứu trợ từ nhà Kim, đã đồng ý phục tùng sự cai trị của Mông Cổ và thể hiện lòng trung thành của mình bằng cách gả con gái cho Thành Cát Tư Hãn.

Sau thất bại của họ vào năm 1210, Tây Hạ đã trở thành chư hầu trung thành của Đế quốc Mông Cổ trong gần một thập kỷ, giúp đỡ người Mông Cổ trong cuộc chiến chống lại nước Kim. Năm 1219, Thành Cát Tư Hãn đã phát động chiến dịch chống lại đế quốc Khwarazmian ở Trung Á và yêu cầu viện trợ quân sự từ Tây Hạ. Tuy nhiên, hoàng đế và chỉ huy quân sự của Tây Hạ đã từ chối tham gia chiến dịch. Tức giận, Thành Cát Tư Hãn thề sẽ trả thù Tây Hạ rồi đem quân đi đánh Khwarazm, trong khi Tây Hạ cố gắng liên minh với Kim và Nam Tống để chống lại quân Mông Cổ.

Sau khi đánh bại Khwarazm vào năm 1221, Thành Cát Tư Hãn đã chuẩn bị quân đội của mình để trừng phạt Tây Hạ vì sự phản bội của họ, và vào năm 1225, ông đem quân tấn công Tây Hạ cùng một lực lượng khoảng 180.000 quân. Sau khi chiếm được Khara-Khoto, quân Mông Cổ bắt đầu tiến về phía nam.

Thành Cát Tư Hãn chia đội quân của mình làm hai và phái tướng Oa Khoát Đài tiến đánh các thành phố phía tây, trong khi đạo quân chính do Thành Cát Tư Hãn thống lĩnh tiến đánh về phía đông, xâm nhập vào trung tâm của nước Tây Hạ và chiếm lấy Cám Châu.

Vào tháng 8 năm 1226, quân đội Mông Cổ đã tiếp cận Vũ Uy, thành phố lớn thứ hai của Tây Hạ. Người đứng đầu thành Vũ Uy đã ra lệnh đầu hàng mà không kháng cự. Vào mùa thu năm 1226, Thành Cát Tư Hãn chiếm Lương Châu, băng qua sa mạc Helan Shan và vào tháng 11 bao vây thành Linh Vũ, chỉ còn cách Ngân Xuyên 30 km. Tại đây, trong Trận chiến sông Hoàng Hà, quân Mông Cổ đã tiêu diệt một lực lượng gồm 300.000 quân Tây Hạ đang cố gắng phát động một cuộc phản công chống lại họ.

Quân Mông Cổ đến được Ngân Xuyên vào năm 1227, bao vây thành phố và tung ra nhiều cuộc tấn công vào nước Kim để ngăn họ gửi quân tiếp viện sang Tây Hạ. Ngân Xuyên bị bao vây 6 tháng thì Thành Cát Tư Hãn mở các cuộc đàm phán hòa bình trong khi bí mật lên kế hoạch giết hoàng đế Tây Hạ. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 1227, Thành Cát Tư Hãn đã chết vì một nguyên nhân không rõ, và để không gây nguy hiểm cho chiến dịch đang diễn ra, cái chết của ông được giữ bí mật. Vào tháng 9 năm 1227, Hoàng đế Mạt Chủ đầu hàng quân Mông Cổ và bị xử tử ngay lập tức. Người Mông Cổ sau đó cướp bóc Ngân Xuyên không thương tiếc, tàn sát dân chúng của thành phố, cướp phá lăng mộ của các vị tiên đế. Nước Tây Hạ chính thức diệt vong.

Tiêu diệt nước Kim

Bài chi tiết: Chiến tranh Mông-Kim

Chiến tranh Mông-Kim kéo dài trong 23 năm với kết quả là triều Kim của người Nữ Chân bị tiêu diệt vào năm 1234. Đế quốc Mông Cổ sau đó kiểm soát được khu vực nay là Hoa Bắc, Đông Bắc Trung Quốc và một bộ phận Viễn Đông Nga.

Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn thống lĩnh 5 vạn kỵ binh Mông Cổ xâm nhập đất Kim và lôi kéo người Khiết Đan và Tây Hạ nổi dậy. Tháng 8 năm 1211, Thành Cát Tư Hãn đóng quân ở Phủ Châu (Trương Bắc, Hà Bắc).

Trong 2 năm 1212-1213, quân Mông Cổ san bằng hơn 90 thành trì của nhà Kim. Năm 1213, Thành Cát Tư Hãn ra lệnh tập trun gbinh lực giao chiến quân chủ lực của nhà Kim ở Dã Hồ Lĩnh (tây bắc Trương Gia Khẩu, Hà Bắc).

Trận Dã Hồ Lĩnh (野狐嶺戰役) là một trận quyết chiến giữa quân Mông Cổ và triều đình nhà Kim. Đây là một trận chiến có quy mô lớn nhất từ trước đến nay đối với quân Mông cổ. Thành Cát Tư Hãn đã tiếp nhận kiến nghị của Mộc Hoa Lê, trước tiên dùng đội quân cảm tử để thọc sâu vào Trung quân của Kim, rồi sau đó các cánh quân khác mới mở đường tấn công, tức tập trung 10 vạn quân để đánh thẳng vào một mục tiêu chủ yếu. Hơn nữa, chủ soái của Mông Cổ dù đứng trước mọi tình trạng nguy hiểm vẫn không hốt hoảng, vẫn bình tĩnh chỉ huy. Các tướng sĩ của Mông Cổ dám xông lên chiến đấu không sợ hiểm nguy. Do vậy, chủ lực của triều đình nhà Kim bị đánh bại. 15 vạn quân Kim tiếp ứng thì chưa đánh đã bỏ chạy trước, bỏ mặc đồng đội phải chống đỡ. Xác chết của quân Kim đã nằm rải rác trên một diện tích rộng hằng trăm dặm. Qua trận đánh này, binh lực súc tích cả 100 năm của triều đình nhà Kim đã bị đánh bại hoàn toàn, nên thế nước của họ ngày càng suy sụp. Trận đánh tại Dã Hồ Lãnh là một bước ngoặt đối với sự thất bại của triều đình nhà Kim và sự thắng lợi của quân Mông Cổ.

Năm 1214 nhà Kim chuyển kinh đô về Biện Kinh (tức Khai Phong - kinh đô cũ nhà Tống) để tránh người Mông Cổ. Tháng 6 năm 1214, quân Mông Cổ mở cuộc tấn công vào nước Kim lần thứ hai. Họ bắt đầu từ Bắc Khẩu tấn công Cảnh Châu, Kế Châu, Đàn Châu, Thuận Châu, v.v... Tháng 7, thái tử nước Kim là Hoàn Nhan Thủ Trung bỏ chạy khỏi Trung Đô. Tháng 10, Mộc Hoa Lê xua quân tấn công Liêu Đông. Tháng giêng năm 1215, Thạch Mạt Minh An, anh em Gia Luật xua quân tấn công thành trì. Quân Mông Cổ đánh chiếm được Thông Châu, áp sát Trung Đô.

Thành Cát Tư Hãn ra lệnh cho tướng Mộc Hoa Lê vây kín Yên Kinh, lại ra lệnh cho Triết Biệt đóng quân dọc đường từ Khai Phong tới Yên Kinh, chặn đánh tất cả các đoàn tiếp tế lương thảo. Về phía Kim, khi triều đình Kim rút lui, để Hoàn Nhan Thừa Huy ở lại cố thủ. Một bên quyết bao vây, một bên quyết thủ. Hết mùa đông, sang mùa xuân thành Yên Kinh vẫn đứng vững. Nhưng lương thực trong thành ngày một cạn. Quân trong thành không tướng chỉ huy. Các tướng coi binh đoàn tranh quyền, đánh lẫn nhau, không ai giữ cửa thành. Một vài toán quân bị bại, mở toang cửa thành ra hàng Mông Cổ. Mộc Hoa Lê xua một vạn rưởi kị binh, dẫn theo 30 binh đoàn thân binh tràn vào thành. Kị binh Mông Cổ xông vào tàn sát quân lính và dân chúng, đốt phá khắp nơi. Tính ra có tới 5 vạn quân Kim bị giết với khoảng 50 vạn dân chúng chết trong loạn quân. 10 vạn phụ nữ lên thành nhảy xuống tự tử vì sợ bị hãm hiếp. Trong ba tháng, thành Yên Kinh vẫn còn bốc cháy.

Nước Kim từ đó liên tục thất bại, không kháng cự nổi. Năm 1217, tướng Mộc Hoa Lê chỉ huy quân Mông Cổ tiếp tục xâm chiếm đất đai của Kim. Quân Kim phải dàn quân cả ở phía nam và bắc và bị cô lập vì không liên kết được với Nam Tống chống quân Mông Cổ.

Năm 1223, Mộc Hoa Lê đánh vào Thiểm Tây, tấn công Trường An. Tại đây lực lượng của Kim rất mạnh, đông tới 20 vạn người do tướng Hoàn Nhan Hợp đạt chỉ huy. Mộc Hoa Lê chuyển sang bao vây Phượng Tường với lực lượng 10 vạn người. Cuộc bao vây kéo dài hơn 1 tháng và quân Mông Cổ bị quấy rối bởi các lực lượng địa phương trong khi quân tiếp viện của Tây Hạ không đến. Mộc Hoa Lê sau đó chết bệnh vì uất ức và quân Mông Cổ rút lui.

Khi hai bên giao chiến ở vùng Sơn Đông, dọc đường mười nhà thì chín nhà bỏ trống, người trên đường nhao nhao chạy nạn, quân Kim tan vỡ, quân lính thua trận chạy về cướp đoạt tiền bạc, hãm hiếp phụ nữ. Đà Lôi và Mộc Hoa Lê cầm quân đánh Kim, đại chiến mấy trận ở Sơn Đông đánh quân Kim đại bại tan rã. Quân sĩ còn lại của nước Kim tập trung ở cửa Đồng Quan, đóng chặt cửa quan cố thủ, không dám ra Sơn Đông nghênh chiến. Năm 1223, cả tướng Mông Cổ Mộc Hoa Lê và vua Kim Tuyên Tông đều chết. Kim Ai Tông Hoàn Nhan Thủ Tự lên kế vị và cố gắng huy động lực lượng chống lại sức mạnh của Mông Cổ.

Năm 1231, quân Mông Cổ quay trở lại đánh Phượng Tường và chiếm được. Lực lượng quân Kim đóng ở Trường An hoảng sợ, đem toàn bộ dân chúng rút khỏi thành chạy về Hà Nam. Một tháng sau, quân Mông Cổ đã chia quân 3 mặt tây, bắc, đông tấn công vào Khai Phong. Trên đường tiến quân từ Đặng Châu đến Khai Phong, quân Mông Cổ dễ dàng chiếm hết vùng này đến vùng khác, đốt cháy các thứ cướp được để ngăn Hoàn Nhan Khờ Tả cho quân đuổi theo. Hoàn Nhan Khờ Tả buộc phải rút lui và đụng độ dữ dội với quân Mông Cổ tại núi Tam Phong thuộc Điếu Châu (Vũ Châu, Hà Nam). Khi quân Kim tiến đến núi Tam Phong, bất ngờ có trận bão tuyết ập đến. Thời tiết quá lạnh nên mặt ai cũng trắng như người chết và tiến quân rất chậm. Lúc này quân Mông Cổ đã tập kích, hàng ngũ quân Kim tan rã nhanh chóng. Quân Mông Cổ tàn sát không thương tiếc quân Kim, Hoàn Nhan Khờ Tả và nhiều tướng khác bị tử thương. Gần như toàn bộ quân chủ lực của Kim ở Thiểm Tây và Hà Nam hầu như bị tiêu diệt trong trận này.

Tháng 4 năm 1233 thành Khai Phong thất thủ, Kim Ai Tông Hoàn Nhan Thủ Tự chạy đến Quy Đức, sau lại đến Thái Châu (Nhữ Nam, Hà Nam). Quân Mông Cổ tấn công kinh đô Biện Kinh của triều Kim và quân Mông Cổ đã bị người Kim chống trả ác liệt, khiến tướng sĩ Mông Cổ chết nhiều, tướng sĩ Mông Cổ đã đề nghị Oa Khoát Đài "làm cỏ" kinh thành Khai Phong để trả thù cho quân sĩ. Oa Khoát Đài ban đầu cũng đồng tình theo ý của viên tướng Tốc Bất Hợp nhưng Da Luật Sở Tài đã dùng lý lẽ can gián liên tiếp và Oa Khoát Đài nghe ra, cuối cùng chỉ cho giết những người là tay chân của vua Kim. Sự can gián của Da Luật Sở Tài đã cứu sống hơn 147 vạn dân vô tội trong thành Khai Phong. Nửa năm sau, tháng 1 năm 1234 liên quân Mông–Tống công hãm Thái Châu, nhà Nam Tống cho tướng Mạnh Củng dẫn 2 vạn quân và 30 vạn thạch lương đến hội quân, cùng công phá Thái Châu, quân Mông Cổ từ phía tây, quân Tống đánh vào từ phía nam, vua Kim tự tử, kết thúc vương triều Kim. Diệt xong Kim, Nam Tống trở thành miếng mồi xâm lược của vua Mông Cổ.

Chinh phục Nam Tống

Lúc đầu, người Mông Cổ liên minh với Nam Tống vì cả hai đều có một kẻ thù chung là nước Kim. Tuy nhiên, liên minh này đã tan vỡ vào năm 1234. Khi quân Tống hội quân với Mông Cổ để đánh Kim đã thừa cơ chiếm lấy Trường An và Khai Phong từ tay người Mông Cổ. Sau sự việc một viên đại sứ Mông Cổ bị giết, quân Mông Cổ tuyên chiến với nhà Tống. Rất nhanh, quân đội Mông Cổ đã đẩy lùi quân Tống trở lại Dương Tử, hai bên đã chiến đấu với nhau suốt 40 năm cho đến khi Nam Tống sụp đổ vào năm 1276. Sự kháng cự quyết liệt của quân Tống khiến quân Mông Cổ phải chiến đấu một cuộc chiến khó khăn nhất trong số tất cả các cuộc chinh phạt của họ.

Sau nhiều cuộc chiến kéo dài, Mông Kha chết trong một cuộc tấn công của quân Mông Cổ vào pháo đài Điếu Ngư. Hốt Tất Liệt, người kế vị Mông Kha, mở một chiến dịch đánh chiếm thành Tương Dương. Quân Mông Cổ coi một chiến thắng tại Tương Dương là chìa khóa để mở ra thắng lợi chung cuộc trước Nam Tống. Một khi quân Mông chiếm được Tương Dương, họ có thể di chuyển bằng thuyền xuôi dòng Hán Thủy để tiến vào Trường Giang. Năm 1267, Hốt Tất Liệt ra lệnh cho A Truật (Aju) và hàng tướng nhà Tống là Lưu Chỉnh đem quân tấn công Tương DươngPhàn Thành.

A Truật và Lưu Chỉnh đến nơi vào năm 1268 và phong tỏa thành với một vòng các công sự. Để gia cố thêm tường thành, quân Tống đã làm những chiếc lưới nhằm dùng để che chắn cho các bức tường trước các máy bắn đá. Kết quả là, các máy bắn đá của người Mông rất khó khăn trong việc bắn trúng thành, một số ít các quả đạn thành công khi đập vào tường song vô hại.

Việc phòng thủ Tương Dương đến hồi kết vào năm 1273, với sự xuất hiện của máy bắn đá trọng lực, tức Tây Vực pháo (Còn gọi là Hồi tân pháo). Do tướng người Hán là Quách Khản đã từng chiến đấu cùng với quân Mông Cổ dưới quyền Húc Liệt Ngột ở vùng Trung Đông, nên Hốt Tất Liệt đã nghe nói về các vũ khí bao vây khủng khiếp. A Bất Ca hãn (Abaqa Khan) của Y Nhi hãn quốc đã gửi các chuyên gia Ba Tư Ismail và Al al-Din đến Trung Hoa theo chiếu chỉ của Đại hãn Hốt Tất Liệt vào năm 1272. Họ đã dựng các Tây Vực pháo dưới sự chỉ huy của tướng người Duy Ngô Nhĩ là A Lý Hải Nha vào tháng 3 năm 1273. Những chiếc Tây Vực pháo này có tầm bắn lên tới 500 m, và có thể phóng các quả đạn nặng tới 300 kg. Thêm vào đó, những chiếc máy bắn đá mới này còn chính xác hơn nhiều so với các máy bắn đá kiểu cũ, và chúng là loại pháo duy nhất có đủ sức mạnh để công phá các bức tường thành kiên cố của Tương Dương. Quân Mông làm khoảng 20 chiếc, và dùng chúng để hỗ trợ cuộc bao vây Tương Dương.

Quân Nguyên bắt đầu vây hãm Phàn Thành vào đầu năm 1273. Lính Nam Tống ở Tương Dương đã chứng kiến những tảng đá khổng lồ rơi vào những bức tường thành khổng lồ của Phàn Thành, và phá hủy những căn nhà trong thành. Những bức tường thành, cùng với lưới, đã bị phá hủy thành từng mảnh. Ngay khi thành sụp đổ, kỵ binh Mông Cổ tràn vào pháo đài. Phàn Thành đã nhanh chóng thất thủ chỉ trong vòng vài ngày sau khi chống giữ trong nhiều năm liền. Tướng giữ Phàn Thành là Phạm Thiên Thuận tử tiết theo thành

Quân Nguyên sau đó chuyển hướng sang Tương Dương. Tuy nhiên, Lã Văn Hoán chưa đầu hàng, vì ông biết rằng Tương Dương không được phép thất thủ. Ông gửi một người đưa tin tới chỗ Hoàng đế Tống Độ Tông, yêu cầu cứu viện ngay lập tức. Người đưa tin đã vượt qua được phòng tuyến của quân Nguyên và đến được chỗ Hoàng đế. Nhưng khi nghe về sức mạnh của những chiếc máy bắn đá mới đó, Hoàng đế cho rằng Tương Dương đã mất và đã không gửi quân cứu viện tới.

Vài ngày sau đó, lính Nam Tống nhìn về phía nam mong chờ quân cứu viện, nhưng tất cả những gì họ nhìn thấy chỉ là những chiếc Tây Vực pháo của người Nguyên và quân Nguyên đang chờ đợi để kết liễu họ. A Truật đã tàn sát thường dân ở Phàn Thành để khủng bố tinh thần Tương Dương sau khi ông ta chọc thủng những bức tường của thành này bằng máy bắn đá. Người Nguyên nói với Lã Văn Hoán rằng, nếu quân Nam Tống không đầu hàng thì mọi người trong thành, kể cả thường dân, sẽ bị tàn sát. Lã Văn Hoán thấy không còn cơ hội nào để thủ thành, và không thấy dấu hiệu có quân tiếp viện tới, vì thế đã đầu hàng, kết thúc sáu năm dài bị bao vây. Thành kiên cố nhất của Nam Tống là Tương Dương đã thất thủ trước quân Nguyên. Từ đó, quân Nguyên thoải mái chinh phục những vùng còn lại của Nam Tống. Ở bất kỳ nơi nào quân Nguyên tới, các thành của Nam Tống đều sụp đổ giống như những pháo đài cát trước các máy bắn đá trọng lực và sau này là súng thần công.

Triều đình nhà Tống đầu hàng quân Mông Cổ vào năm 1276. Giờ đây, toàn bộ Trung Quốc đã bị người Mông Cổ chinh phục. Hốt Tất Liệt lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại nhà Nguyên. Chiến thắng trong cuộc xâm lược Nam Tống đánh dấu thành tựu quân sự lớn cuối cùng và cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử của Đế quốc Mông Cổ.

Mông Cổ xâm lược Nhật Bản

Cuộc xâm lược đầu tiên (1274)

Quân Mông Cổ tiến hành chiến dịch xâm lược Nhật Bản với một đội quân gồm 15.000 binh sĩ người Mông Cổ, khoảng 1.500 đến 8.000 binh sĩ người Cao Ly và một hạm đội gồm khoảng 300 con tàu cỡ lớn cùng 400-500 con tàu cỡ nhỏ. Quân Mông Cổ đổ bộ xuống bãi biển Komodahama, đảo Tsushima vào ngày 5 tháng 10 năm 1274. Sō Sukekuni, thống đốc Tsushima, đã lãnh đạo một đơn vị kỵ binh nhỏ để bảo vệ hòn đảo, nhưng ông và toàn bộ binh lính của ông đã bị giết trong trận chiến. Người Mông Cổ và Triều Tiên sau đó đã đánh chiếm Iki. Tairano Takakage, Thống đốc Iki, đã chiến đấu với quân xâm lược cùng với khoảng 100 kỵ binh của ông, nhưng cuối cùng ông đã phải tự sát khi bị đánh bại.

Vào ngày 19 tháng 11, quân Mông Cổ đổ bộ tại Vịnh Hakata, cách Dazaifu, thủ đô hành chính cổ của Kyūshū một khoảng cách ngắn. Ngày hôm sau đã diễn ra Trận chiến Bun'ei (Mitch 永), còn được gọi là "Trận chiến Vịnh Hakata lần thứ nhất".

Người Nhật thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý một lực lượng lớn như vậy (tất cả vùng Bắc Kyūshū đã được huy động), và người Mông Cổ đã đạt được tiến bộ ban đầu đáng kể. Đã gần 50 năm kể từ sự kiện chiến đấu lớn cuối cùng ở Nhật Bản, và không một vị tướng Nhật Bản nào có kinh nghiệm đầy đủ trong việc thống lĩnh một đội quân lớn. Ngoài ra, phong cách chiến tranh vốn là thông lệ trong thời phong kiến Nhật Bản đó là một-chọi-một (quy tắc võ sĩ đạo), ngay cả trong các trận đánh lớn. Thật không may cho người Nhật, người Mông Cổ không quen thuộc với phong cách chiến đấu như vậy. Khi một samurai đơn độc bước tới để thách thức, lính Mông Cổ sẽ chỉ đơn giản là đồng loạt tấn công anh ta, giống như một đàn kiến đang tấn công một con bọ cánh cứng.

Người Mông Cổ sở hữu các loại vũ khí tầm xa vượt trội (loại cung tên ngắn trứ danh của người Mông Cổ, với các mũi tên tẩm độc, mũi tên lửa, mũi tên thuốc nổ), và dễ dàng chiếm thế thượng phong trong trận chiến trên bộ. Tuy vậy, vào đêm hôm đó, người Mông Cổ lại quyết định lên tàu và tạm thời rút lui ra biển, do lo sợ thời tiết gió mạnh và sóng lớn sẽ khiến cho hạm đội của họ bị mắc cạn. Khi rút lui ra biển, hạm đội của người Mông Cổ đã gặp phải một cơn bão lớn. Hai ngày sau, một phần ba số tàu của quân Mông Cổ đã bị đánh đắm, và khoảng 13.000 binh sĩ và thủy thủ của họ đã bị chết đuối. Tổn thất quá lớn khiến người Mông Cổ từ bỏ ý định xâm lược Nhật Bản.

Cuộc xâm lược lần hai (1281)

Ngay từ năm 1274, Mạc phủ đã phải tăng cường các nỗ lực để bảo vệ Nhật Bản chống lại cuộc xâm lược thứ hai của người Mông Cổ, điều mà họ nghĩ là sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra. Người Nhật đã cho xây dựng nhiều cấu trúc phòng thủ khác tại các điểm đổ bộ tiềm năng. Ở vịnh Hakata, một bức tường phòng thủ cao hai mét đã được xây dựng vào năm 1276.

Đội quân của người Mông Cổ tiến hành chiến dịch xâm lược Nhật Bản lần này được chia làm hai: Một lực lượng gồm 900 tàu chở 17.000 thủy thủ, 10.000 lính Triều Tiên, 15.000 lính Mông Cổ và 15.000 lính Trung Quốc đã khởi hành từ Masan, Triều Tiên hướng tới Nhật Bản. Một lực lượng nữa còn đông đảo hơn gồm 3.500 tàu chở tới 142.000 binh sĩ và thủy thủ xuất phát từ phía nam Trung Quốc.

Hạm đội thứ nhất đã đến Vịnh Hakata vào ngày 23 tháng 6 năm 1281 và bắt đầu mở những cuộc tấn công dữ dội, nhưng không thể xuyên thủng bức tường phòng thủ của người Nhật Bản, thế trận diễn ra giằng co quyết liệt. Khi màn đêm buông xuống, các samurai Nhật Bản sử dụng những chiếc thuyền nhỏ bất thình lình đột kích hạm đội Mông Cổ trong bóng tối, đốt cháy nhiều con tàu và giết hại nhiều binh lính Mông Cổ, sau đó họ lại chèo thuyền quay trở lại đất liền. Những cuộc đột kích vào ban đêm của người Nhật đã gây tổn thất không hề nhỏ cho quân Mông Cổ.

Cuộc chiến lâm vào thế bế tắc trong suốt 50 ngày liên tục, cho đến ngày 12 tháng 8, khi hạm đội chính của Mông Cổ đã đổ bộ xuống phía tây vịnh Hakata. Phải đối mặt với một lực lượng đông hơn gấp ba lần, thế nhưng các samurai vẫn chiến đấu rất dũng cảm dù tình thế đã dần trở nên tuyệt vọng. Tưởng như quân Nhật sẽ phải chịu thất bại, thì phép màu đã đến với họ: vào ngày 15 tháng 8 năm 1281, một cơn bão rất lớn đã đổ bộ vào bờ biển Kyūshū và phá hủy gần như toàn bộ hạm đội của người Mông Cổ. Rất nhiều binh lính Mông Cổ đã chết đuối, số còn lại chạy kịp lên bờ thì cũng bị các samurai tàn sát.

Người Nhật tin rằng các vị thần của họ đã gửi những cơn bão để bảo vệ Nhật Bản khỏi quân Mông Cổ. Họ gọi cơn bão là kamikaze, hay "cơn gió thần". Hốt Tất Liệt dường như đã tin rằng Nhật Bản được bảo vệ bởi các lực lượng siêu nhiên, do đó ông quyết định từ bỏ tham vọng chinh phục đảo quốc này.

Mông Cổ xâm lược Java

Cuộc xâm lăng của Mông Cổ ở Java là một nỗ lực quân sự của Hốt Tất Liệt, người sáng lập nhà Nguyên (một phần của Đế quốc Mông Cổ), xâm chiếm Java, một hòn đảo ở Indonesia hiện đại. Năm 1293, ông đã gửi một hạm đội xâm lược lớn đến Java với 20.000 đến 30.000 binh lính. Đây là một cuộc viễn chinh trừng phạt vua Kertanegara của Singhasari, người đã từ chối không tỏ lòng tôn kính nhà Nguyên và làm hại một trong những sứ giả của mình. Tuy nhiên, nó đã kết thúc với sự thất bại của người Mông Cổ.

Mông Cổ xâm lược Đại Việt